Read the following passage and mark the letter A, B, C, or D on your answer sheet to indicate the correct answer to each of the questions.
A recent study shows that an unequal share of household chores is still the norm in many households, despite the fact that many more women now have jobs. In a survey of 1,256 people ages between 18 and 65, men said they contributed an average of 37% of the total housework, while the women estimated their share to be nearly double that, at 70%. This ratio was not affected by whether the woman was working or not.
When they were asked what they thought was a fair division of labour, women with jobs felt that housework should be shared equally between male and female partners. Women who did not work outside the home were satisfied to perform 80% - the majority of the household work - if their husbands did remainder. Research has shown that, if levels increase beyond these percentages, women become unhappy and anxious, and feel they are unimportant.
After marriage, a woman is reported to increase her household workload by 14 hours per week, but for men the amount is just 90 minutes. So the division of labour becomes unbalanced, as a man's share increases much less than the woman's. It is the inequality and loss of respect, not the actual number of hours, which leads to anxiety and depression. The research describes housework as thankless and unfulfilling. Activities included in the study were cooking, cleaning, shopping, doing laundry, washing up and childcare. Women who have jobs report that they feel overworked by these chores in addition to their professional duties. In contrast, full-time homemakers frequently anticipate going back to work when the children grow up. Distress for this group is caused by losing the teamwork in the marriage.
Theo như đoạn văn, lượng phân chia công việc công bằng là_____
A. phụ nữ làm việc nhà trong 14 giờ
B. đàn ông làm nhiều việc hơn phụ nữ
C. phụ nữ làm hơn 80% lượng việc nhà
D. phụ nữ và đàn ông chia đều việc
“A fair division of labour” được nhắc đến ở đầu đoạn 2, với quan niệm “housework should be shared equally between male and female partners”. Tức là phụ nữ và đàn ông nên chia đều việc với nhau (đáp án D)
Những hoạt động sau đây đều được đề cập trong đoạn như một phần việc nhà, ngoại trừ:
A. chăm con
B. dọn rửa
C. đi mua đồ
D. chăm cha mẹ già
Đoạn cuối có đề cập “Activities included in the study were cooking, cleaning, shopping, doing laundry, washing up and childcare.” Ta thấy chỉ có ý “taking care of old-aged parents” không xuất hiện. Như vậy chọn D.
Từ “remainder” ở đoạn 2 gần nghĩ nhất với____
A. phần được chia
B. phần được bù vào
C. phần đã làm
D. phần còn lại
Remainder: phần còn lại = what is left
Từ “norm” ở đoạn 1 gần nghĩa nhất với____
A. điều kì lạ
B. điều bất bình đẳng
C. điều thay đổi
D. điều bình thường
Norm(n): lẽ bình thường, dĩ nhiên = usual thing
Tuy phụ nữ cho rằng đàn ông nên chia sẻ công việc, những người không có nghề nghiệp sẵn lòng gánh _____ việc nhà.
A. 14%
B. 37%
C. 80%
D. 70%
Câu 2 đoạn 2: “Women who did not work outside the home were satisfied to perform 80%”
Như vậy chọn đáp án C.
Có thể suy ra từ đoạn văn rằng sau khi kết hôn, _______
A. phụ nữ làm việc nhà gấp đôi đàn ông
B. phụ nữ ngày càng làm việc nhà ít đi
C. đàn ông dành ít thời gian làm việc nhà hơn phụ nữ
D. đàn ông làm nhiều việc nhà hơn phụ nữ
Câu đầu đoạn 3: “After marriage, a woman is reported to increase her household workload by 14 hours per week, but for men the amount is just 90 minutes.”
Từ đây ta thấy phụ nữ làm 14 giờ và đàn ông làm chỉ 90 phút. Rõ ràng, đàn ông dành ít thời gian làm việc nhà hơn phụ nữ.
Từ “they” ở đoạn 2 nói đến
A. đàn ông
B. công việc
C. nghề nghiệp
D. phụ nữ
Đọc hết câu, ta thấy “they” là thay thế cho “women”, cụ thể là “women with jobs”
When they were asked what they thought was a fair division of labour, women with jobs felt that housework should be shared equally between male and female partners. Women who did not work outside the home were satisfied to perform 80% - the majority of the household work - if their husbands did remainder. Research has shown that, if levels increase beyond these percentages, women become unhappy and anxious, and feel they are unimportant.
After marriage, a woman is reported to increase her household workload by 14 hours per week, but for men the amount is just 90 minutes. So the division of labour becomes unbalanced, as a man's share increases much less than the woman's. It is the inequality and loss of respect, not the actual number of hours, which leads to anxiety and depression. The research describes housework as thankless and unfulfilling. Activities included in the study were cooking, cleaning, shopping, doing laundry, washing up and childcare. Women who have jobs report that they feel overworked by these chores in addition to their professional duties. In contrast, full-time homemakers frequently anticipate going back to work when the children grow up. Distress for this group is caused by losing the teamwork in the marriage.
According to the passage, a fair division of labour is that________
A. women do 14 hours of housework
B. men do more housework than women
C. women do more than 80 percent of the housework
D. women and men share the housework equally
Đáp án D
Đáp án DTheo như đoạn văn, lượng phân chia công việc công bằng là_____
A. phụ nữ làm việc nhà trong 14 giờ
B. đàn ông làm nhiều việc hơn phụ nữ
C. phụ nữ làm hơn 80% lượng việc nhà
D. phụ nữ và đàn ông chia đều việc
“A fair division of labour” được nhắc đến ở đầu đoạn 2, với quan niệm “housework should be shared equally between male and female partners”. Tức là phụ nữ và đàn ông nên chia đều việc với nhau (đáp án D)
All activities mentioned in the passage are household chores EXCEPT_______
A. childcaring
B. washing-up
C. shopping
D. taking care of old-aged parents
Đáp án D
Đáp án DNhững hoạt động sau đây đều được đề cập trong đoạn như một phần việc nhà, ngoại trừ:
A. chăm con
B. dọn rửa
C. đi mua đồ
D. chăm cha mẹ già
Đoạn cuối có đề cập “Activities included in the study were cooking, cleaning, shopping, doing laundry, washing up and childcare.” Ta thấy chỉ có ý “taking care of old-aged parents” không xuất hiện. Như vậy chọn D.
The word "remainder" in paragraph 2 is closest in meaning to________
A. what is shared
B. what is fulfilled
C. what is done
D. what is left
Đáp án D
Đáp án DTừ “remainder” ở đoạn 2 gần nghĩ nhất với____
A. phần được chia
B. phần được bù vào
C. phần đã làm
D. phần còn lại
Remainder: phần còn lại = what is left
The word "norm" in paragraph 1 is closest in meaning to________
A. strange thing
B. unequal thing
C. changing thing
D. usual thing
Đáp án D
Đáp án DTừ “norm” ở đoạn 1 gần nghĩa nhất với____
A. điều kì lạ
B. điều bất bình đẳng
C. điều thay đổi
D. điều bình thường
Norm(n): lẽ bình thường, dĩ nhiên = usual thing
Although women think men should share the housework, those who don't have paid job agree to share ____ of the chores.
A. 14 percent
B. 37 percent
C. 80 percent
D. 70 percent
Đáp án C
Đáp án CTuy phụ nữ cho rằng đàn ông nên chia sẻ công việc, những người không có nghề nghiệp sẵn lòng gánh _____ việc nhà.
A. 14%
B. 37%
C. 80%
D. 70%
Câu 2 đoạn 2: “Women who did not work outside the home were satisfied to perform 80%”
Như vậy chọn đáp án C.
It can be inferred from the passage that after getting married, ________
A. women do twice as much housework as men
B. women do less and less housework
C. men spend much less time doing housework than women
D. men do more housework than women
Đáp án C
Đáp án CCó thể suy ra từ đoạn văn rằng sau khi kết hôn, _______
A. phụ nữ làm việc nhà gấp đôi đàn ông
B. phụ nữ ngày càng làm việc nhà ít đi
C. đàn ông dành ít thời gian làm việc nhà hơn phụ nữ
D. đàn ông làm nhiều việc nhà hơn phụ nữ
Câu đầu đoạn 3: “After marriage, a woman is reported to increase her household workload by 14 hours per week, but for men the amount is just 90 minutes.”
Từ đây ta thấy phụ nữ làm 14 giờ và đàn ông làm chỉ 90 phút. Rõ ràng, đàn ông dành ít thời gian làm việc nhà hơn phụ nữ.
The word "they" in paragraph 2 refers to________
A. men
B. labour
C. jobs
D. women
Đáp án D
Đáp án DTừ “they” ở đoạn 2 nói đến
A. đàn ông
B. công việc
C. nghề nghiệp
D. phụ nữ
Đọc hết câu, ta thấy “they” là thay thế cho “women”, cụ thể là “women with jobs”
Dịch bài
Một nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng lượng phân chia bất bình đẳng việc nhà vẫn là một lẽ dĩ nhiên đối với nhiều gia đình, dù cho rất nhiều phụ nữ ngày nay có công việc. Trong một cuộc khảo sát với 1,256 người độ tuổi từ 18 đến 65, đàn ông cho biết họ đóng góp khaongr 37% tổng lượng việc nhà, trong khi phụ nữ dự tính phần của họ gần gấp đôi lượng đó, khoảng 70%. Tỉ lệ này không bị tác động bất kể ngừoi phụ nữ có nghề nghiệp hay không.
Khi được hỏi về quan niệm phân chia công bằng trong công việc, phụ nữ có nghề nghiệp cho rằng việc nhà nên được chia đều cho cả hai bên. Những bà nội trợ lại sẵn lòng gánh 80% - đa số công việc nhà – chỉ cần chồng họ làm phần còn lại. Nghiên cứu cho thấy, nếu số phần trăm này tăng lên, phụ nữ sẽ rầu rĩ và bất an, và cảm thấy rằng mình không được coi trọng.
Sau khi kết hôn, báo cáo cho thấy phụ nữ tăng lượng làm việc nhà lên 14 giờ mỗi tuần, còn đàn ông chỉ 90 phút. Phân chia công việc trở nên mất cân đối, khi phần việc của đàn ông tăng ít hơn nhiều so với phụ nữ. Chính sự bất bình đẳng và sự thiếu tôn trọng, chứ không phải số giờ làm việc thực tế, đã đưa lại sự bất an và lo lắng cho phụ nữ. Theo nghiên cứu, việc nhà được coi là không lợi lộc gì và không khiến người ta thoả mãn. Các hoạt động được khảo sát bao gồm nấu ăn, dọn dẹp, mua sắm, giặt giũ, rửa bát và chăm con. Phụ nữ có nghề nghiệp nói rằng họ cảm thấy quá sức khi vừa phải làm việc nhà vừa phải làm việc công ty. Ngược lại, những bà nội trợ thường định trước sẽ trở lại đi làm sau khi con lớn. Nhóm đối ượng này lo sẽ mất kĩ năng làm việc nhóm sau khi kết hôn.
Một nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng lượng phân chia bất bình đẳng việc nhà vẫn là một lẽ dĩ nhiên đối với nhiều gia đình, dù cho rất nhiều phụ nữ ngày nay có công việc. Trong một cuộc khảo sát với 1,256 người độ tuổi từ 18 đến 65, đàn ông cho biết họ đóng góp khaongr 37% tổng lượng việc nhà, trong khi phụ nữ dự tính phần của họ gần gấp đôi lượng đó, khoảng 70%. Tỉ lệ này không bị tác động bất kể ngừoi phụ nữ có nghề nghiệp hay không.
Khi được hỏi về quan niệm phân chia công bằng trong công việc, phụ nữ có nghề nghiệp cho rằng việc nhà nên được chia đều cho cả hai bên. Những bà nội trợ lại sẵn lòng gánh 80% - đa số công việc nhà – chỉ cần chồng họ làm phần còn lại. Nghiên cứu cho thấy, nếu số phần trăm này tăng lên, phụ nữ sẽ rầu rĩ và bất an, và cảm thấy rằng mình không được coi trọng.
Sau khi kết hôn, báo cáo cho thấy phụ nữ tăng lượng làm việc nhà lên 14 giờ mỗi tuần, còn đàn ông chỉ 90 phút. Phân chia công việc trở nên mất cân đối, khi phần việc của đàn ông tăng ít hơn nhiều so với phụ nữ. Chính sự bất bình đẳng và sự thiếu tôn trọng, chứ không phải số giờ làm việc thực tế, đã đưa lại sự bất an và lo lắng cho phụ nữ. Theo nghiên cứu, việc nhà được coi là không lợi lộc gì và không khiến người ta thoả mãn. Các hoạt động được khảo sát bao gồm nấu ăn, dọn dẹp, mua sắm, giặt giũ, rửa bát và chăm con. Phụ nữ có nghề nghiệp nói rằng họ cảm thấy quá sức khi vừa phải làm việc nhà vừa phải làm việc công ty. Ngược lại, những bà nội trợ thường định trước sẽ trở lại đi làm sau khi con lớn. Nhóm đối ượng này lo sẽ mất kĩ năng làm việc nhóm sau khi kết hôn.