Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(Trích Tây Tiến, Quang Dũng, theo Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.89)
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

(Trích Việt Bắc, Tố Hữu, theo Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.112-113)"> Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(Trích Tây Tiến, Quang Dũng, theo Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.89)
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

(Trích Việt Bắc, Tố Hữu, theo Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.112-113)"> Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi ?

Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

(Trích Tây Tiến, Quang Dũng, theo Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.89)
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

(Trích Việt Bắc, Tố Hữu, theo Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.112-113)

Đáp án đúng:
a. Mở bài
Tham khảo Câu 2 phần Làm văn - Đề số 41
b. Thân bài
 Giới thiệu khái quát về các tác giả Quang Dũng, Tố Hữu, các tác phẩm “Tây Tiến”, “Việt Bắc” và hai đoạn trích

Tham khảo Câu 2 phần Làm văn - Đề số 41
 Giải quyết vấn đề nghị luận
• Cảm nhận về hai đoạn thơ
 Đoạn thơ trong “Tây Tiến”: Bức tượng đài về hình tượng người lính Tây Tiến
- Những khó khăn, gian khổ, hi sinh trên chặng đường hành quân:
+ Các chi tiết: “đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá” phản ánh đậm nét bao nỗi nhọc nhằn của lính Tây Tiến. •
“Không mọc tóc” là do điều kiện sinh hoạt, chiến đấu vô cùng thiếu thốn. Vì thiếu thốn nên chấy rận nhiều và để đỡ chấy rận thì lính Tây Tiến cạo trọc đầu. Thêm nữa, nhiều người lính bị sốt rét, những trận sốt rét liên miên khiến tóc họ rụng đi rất nhiều. Chi tiết “đoàn binh không mọc tóc” là một chi tiết chân thực, phản ánh đúng một đặc điểm nhân dạng của đoàn quân Tây Tiến.
• “Quân xanh màu lá”: Hình ảnh có hai cách hiểu. Cách hiểu thứ nhất là những người lính mặc quân phục màu xanh và đeo lá nguỵ trang. Cách hiểu thứ hai là những người lính vì điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, quân nhu thiếu thốn nên họ ốm o, nước da xanh bủng.
• Không chỉ đối diện với khó khăn, gian khổ, lính Tây Tiến còn phải đối diện với cái chết, sự hi sinh thường trực:
o “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”: Lính Tây Tiến hi sinh rất nhiều. Có người chết vì đói khát, vì mệt, có người chết trong chiến đấu. Nhưng do họ hành quân và chiến đấu ở địa bàn toàn đồi núi và xa khu dân cư nên khi lính Tây Tiến chết, thân xác họ thường được những người đồng đội bọc vội trong manh chiếu rách hoặc trong tấm vải bạt và lấp bằng những hòn đá, tảng đá ven đường. Con đường hành quân của họ thì quá dài, lại dọc biên giới nên Quang Dũng viết “rải rác biên cương mồ viễn xứ” cũng là xuất phát từ thực tế ấy.
o “Áo bào thay chiếu anh về đất”: Đây là câu thơ rất đẹp bởi hình ảnh thơ cổ gợi vẻ trang trọng (“áo bào”) và cách nói giảm nói tránh (“anh về đất”). Thực tế, khi hi sinh, phần nhiều những người lính chẳng có được tấm ván để mà che thân. Có người chỉ được quấn vội bởi một tấm nilon hay một tấm vải xoàng. Nhưng Quang Dũng lại đưa vào lời thơ hình ảnh “áo bào” - tấm áo khoác của vị chiến tướng thời xưa - nhằm xua đi vẻ thê lương trong cái chết của người lính. Cụm từ “anh về đất” khiến cái chết của những người lính được cảm nhận như sự trở về với đất mẹ. Lời thơ theo đó mà nhẹ bẫng thay vì gieo vào lòng người đọc cảm giác trĩu nặng của nỗi xót thương.
- Vượt lên trên tất cả gian khổ, hi sinh, lính Tây Tiến vẫn hiện lên tuyệt đẹp:
+ Chi tiết “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”: Đây là câu thơ gợi vẻ đẹp lí tưởng chiến đấu cao đẹp của những người lính cụ Hồ nói chung và lính Tây Tiến nói riêng.
Liên hệ lí tưởng chiến đấu cao đẹp của người lính trong một số thi phẩm:
“Đồng chí” (Chính Hữu):
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
“Chào xuân 67” (Tố Hữu):
“Nếu được làm hạt giống để mùa sau
Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa
Vui gì hơn làm người lính đi đầu
Trong đêm tối tim ta rực lửa”
“Những người đi tới biển” (Thanh Thảo):
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc”
 Người lính mọi thời đại (chống Pháp, chống Mĩ) đều mang trong mình lí tưởng chiến đấu cao đẹp: Chiến đấu vì độc lập tự do cho Tổ quốc, không quản ngại gian khổ, hi sinh).
+ Vẻ đẹp của khí phách hiên ngang, lòng dũng cảm, can trường:
• Cách viết “Đoàn binh không mọc tóc” gợi tư thế và tâm thế chủ động đối diện với khó khăn, gian khổ của người lính. Cách viết ấy cho phép người đọc diễn đạt lại thành: không thèm mọc tóc. Theo đó, lời thơ mang đến cảm nhận khá rõ nét về khí phách hiên ngang, thậm chí có phần ngang tàng, ngạo nghễ (giống “súng ngửi trời”) của lính Tây Tiến.
• Sự đối lập giữa hai hình ảnh “quân xanh màu lá” - “dữ oai hùm”, mà trong đó trọng số/ sức nặng của lời thơ rơi vào vế “dữ oai hùm” tiếp tục tô đậm cho khí phách ngang tàng của lính Tây Tiến. Hình ảnh ẩn dụ (“dữ oai hùm”) gợi vẻ đẹp dữ dằn, oai nghiêm của người lính khi thực hiện nhiệm vụ chiến đấu.
• Chi tiết “mắt trừng”: mang đến cảm nhận về ánh nhìn nảy lửa của những người lính khi làm nhiệm vụ canh giữ biên cương. Hẳn nhiên, đó là ánh nhìn hướng về phía quân thù.
 Người lính hiện lên với vẻ đẹp hết sức rắn rỏi, ngang tàng và tâm thế chủ động, sẵn sàng chiến đấu.
+ Vẻ đẹp của tâm hồn lãng mạn, hào hoa:
• Chi tiết “gửi mộng qua biên giới”: Chi tiết này thuộc về vế thứ hai trong dòng thơ viết về cái nhìn của những người lính (vế trước là “mắt trừng”). Theo đó, có thể thấy nếu hướng về quân thù, ánh nhìn của những người lính luôn hết sức dữ dằn, nảy lửa thì hướng về Hà Nội, về Thủ đô yêu dấu, về nơi có những bóng hồng, có những người yêu dấu của mình thì những người lính Tây Tiến luôn nhìn bằng ánh mắt đầy mơ mộng, đầy chất thơ. “Mộng” ở đây là mộng hoà bình, là giấc mơ hoà bình mà bất cứ người lính nào khi cầm súng cũng theo đuổi. “Mộng” ở đây còn là niềm thương, nỗi nhớ, là ước mơ được gặp lại, được kề cận, sum vầy, được ở bên những người con gái yêu thương - là “mộng” lứa đôi.
• “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”: Chi tiết tiếp tục bồi thấm cho giấc mơ hoà bình, giấc mộng đôi lứa trong tâm hồn những chàng lính trẻ. Trong những đêm thực hiện nhiệm vụ tuần tra biên giới, người lính Tây Tiến đã khôn nguôi thương nhớ về những thiếu nữ Hà Thành, những người con gái trong dáng áo dài thướt tha, có thể là đi bộ, có thể là thong dong đạp xe trên những con đường phố cổ. Đây là hình ảnh rất quen thuộc từng xuất hiện rất nhiều trong những bức tranh hay những thước phim về Hà Nội thời tiền chiến.
 Vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, tình tứ, hào hoa của lính Tây Tiến.
 Đoạn thơ đã tạc dựng chi tiết, đầy đủ, toàn diện về hình tượng người lính Tây Tiến.
- Nỗi đau trước cái chết và sự hi sinh của lính Tây Tiến:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
+ Hình ảnh sông Mã là hình ảnh biểu trưng cho thiên nhiên miền Tây, nó chính là hình ảnh hoán dụ, thay thế cho thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. Như vậy, khi chọn hình ảnh sông Mã để bộc lộ nỗi đau, Quang Dũng muốn thể hiện nỗi đau mang tầm vóc vũ trụ. Ở đây, nỗi đau trước sự hi sinh của người lính không còn chỉ thuộc về riêng Quang Dũng mà đã trở thành nỗi đau của đất nước, của dân tộc, của rừng thiêng sông núi. Theo đó, lời thơ mang tầm vóc sử thi bi tráng.
+ Từ “gầm”: động từ mạnh, biểu thị nỗi đau lớn, dữ dội, cuồn cuộn theo dòng nước. Nỗi đau ấy không thể giữ lại, không thể kìm nén trong lòng mà đột ngột vọt trào như tiếng thét dữ dội trước sự ra đi của người lính Tây Tiến.
+ Đoạn thơ sử dụng khá nhiều từ Hán Việt: “đoàn binh”, “biên giới”, “biên cương”, “viễn xứ”, “chiến trường”, “khúc độc hành”.
• Mang lại âm điệu trang trọng cho lời thơ, khiến lời thơ như một khúc tráng ca (khúc ca hùng tráng), một hồi kèn dài tiễn đưa người lính về với đất mẹ anh hùng.
• Góp phần xua đi ám ảnh về những gian khổ, hi sinh của lính Tây Tiến. Chính nhờ những từ ngữ đó, mà người lính Tây Tiến hiện lên “ốm nhưng không yếu”, “bi nhưng không luỵ”.
 Câu thơ như là một tiếng khóc lớn của non sông, đất nước trước sự hi sinh của người lính Tây Tiến.
Tiểu kết: Đoạn thơ như một khúc tráng ca dựng lên trọn vẹn bức chân dung/ bức tượng đài về hình tượng người lính Tây Tiến.
 Đoạn thơ trong “Việt Bắc”: Hình ảnh đoàn quân ra trận
- Hai câu đầu: khái quát bối cảnh hào hùng của đoàn quân ra trận
+ Không gian: “những đường Việt Bắc” mở ra những ngả đường ra trận, những cung đường chiến đấu, gợi đến không khí sục sôi kháng chiến của dân tộc.
+ Thời gian: “đêm đêm” - chỉ thời gian liên tục, liên tiếp, nối tiếp, gợi không khí khẩn trương, gấp rút chuẩn bị toàn lực cho cuộc kháng chiến.
+ Từ láy “rầm rập” cùng hình ảnh “như là đất rung” gợi nhịp bước hào hùng, dũng mãnh của đoàn quân ra trận, những bước đi ấy như cuốn theo sức mạnh long trời lở đất của đội quân với khí thế xông trận hừng hực, ngút trời.
- Trên phông nền hào hùng, dũng mãnh ấy, xuất hiện hình ảnh của những lực lượng tham chiến:
+ Quân đội: đội quân tinh nhuệ, mũi nhọn của ta.
• Chi tiết “Quân đi điệp điệp trùng trùng”: gợi hình ảnh của những đoàn quân ra trận nối dài bất tận; đông đúc, hùng hậu nhưng không lộn xộn mà hết sức tề chỉnh, ngay ngắn trong hàng ngũ, mỗi bước đi của các anh là một nhịp bước hành quân đều đặn. Đây là một hình ảnh đẹp biểu trưng lực lượng chiến đấu hùng hậu, tinh nhuệ của quân đội ta.
• Chi tiết “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”: gợi vẻ đẹp lí tưởng của lực lượng quân đội. Đi liền với ngọn súng, treo trên đầu ngọn súng là ánh sao, là vầng trăng (liên hệ hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong “Đồng chí” của Chính Hữu). Nếu ngọn súng là hình ảnh biểu trưng cho ý chí chiến đấu thì trăng và sao luôn là hình ảnh tượng trưng cho lí tưởng, khát vọng hoà bình. Mối tương giao giữa hai hình ảnh này chắc hẳn phải là: Người lính không tiếc tuổi xuân, không ngại gian khổ, hi sinh mà tham gia chiến đấu là để giành lại độc lập, tự do, hoà bình cho đất nước, dân tộc.
 Gợi tả sức mạnh vô song, khí thế xông trận mạnh mẽ, hào hùng của đoàn quân.
• Dân quân: Góp sức cùng bộ đội tham gia chiến đấu là lực lượng dân quân. Dân quân của ta vô cùng đông đảo, gồm đủ già trẻ gái trai, nam phụ lão ấu, đủ thành phần phụ nữ, thanh niên, thiếu niên, nhi đồng... Họ tham gia chiến đấu bằng lòng căm thù giặc và nhiệt huyết đấu tranh giành lại hoà bình cho đất nước, cho dân tộc.
• Chi tiết “đỏ đuốc từng đoàn” gợi tả hình ảnh của những đội quân dân quân cũng hết sức đông đảo. Những ngọn đuốc họ cầm trên tay không chỉ là những ngọn đuốc soi đường đi trong đêm tối mà còn là hình ảnh biểu trưng cho khát vọng ánh sáng trong đêm đen đế quốc.
• Chi tiết “bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay”: Đây không phải là chi tiết phóng đại mà ngược lại, đó là một chi tiết đậm chất hiện thực, diễn tả sự hùng tráng trong bước đi như vũ bão, làm rung chuyển đất đai của lực lượng dân công.
+ Sự hợp lực, tổng lực của các lực lượng tham gia chiến đấu đã đưa đến một niềm tin vào tương lai chiến thắng:
“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”
• Chi tiết “nghìn đêm thăm thẳm sương dày”: ẩn dụ, ngầm chỉ những năm tháng tăm tối mà bè lũ đế quốc đã gieo hoạ xuống nhân dân ta. Đó là những ngày tháng tối lạnh, những ngày tháng của đau thương, mất mát, của sự rên xiết dưới gót giày xâm lược của bè lũ thực dân.
• Hình ảnh “Đèn pha bật sáng như ngày mai lên” vừa là hình ảnh thực, vừa là hình ảnh ẩn dụ.
o Hình ảnh thực khi mô tả ánh sáng phát ra từ những chiếc đèn pha của mỗi chiếc xe tải, khi đi trong đêm tối, những chiếc đèn ấy đã phát ra luồng ánh sáng xuyên chiếu qua màn sương mù dày đặc bao phủ lấy núi rừng.
o Hình ảnh còn ẩn dụ cho ánh sáng của tương lai, của chiến thắng, của hoà bình.
* Tiểu kết:
Tám dòng thơ đã gợi tả không khí, sức mạnh và niềm tin chiến thắng của đoàn quân ra trận. Không khí ấy, sức mạnh ấy, niềm tin ấy là những yếu tố cốt lõi đưa đến chiến thắng của quân và dân ta.
• So sánh hai đoạn thơ
- Điểm giống nhau: Hai đoạn thơ đều khơi dậy nhịp điệu khẩn trương, hào hùng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Cả hai đoạn thơ đều được viết bằng nỗi nhớ, bằng kí ức của chủ thể trữ tình.
- Điểm khác biệt:
+ Đoạn thơ trong “Tây Tiến” tập trung khắc họa bức tượng đài về hình tượng người lính trong một binh đoàn; đoạn thơ là sự hòa quyện giữa xúc cảm hào hùng và tinh thần bi tráng.
+ Đoạn thơ trong “Việt Bắc” thể hiện không khí ra trận hừng hực khí thế của toàn quân, toàn dân; đoạn thơ sôi nổi, phấn khởi, bộc lộ rõ niềm vui tươi, phấn khởi, tự hào của người viết.
Sự khác biệt giữa hai đoạn thơ góp phần làm nên vẻ đẹp riêng, giá trị riêng của tác phẩm, thể hiện tài năng của mỗi nghệ sĩ đồng thời làm phong phú thêm cho mảng đề tài viết về con người và đất nước trong chiến tranh.
 Nhận xét, đánh giá; mở rộng, nâng cao
- Hai đoạn thơ tập trung khắc hoạ hình tượng con người Việt Nam trong kháng chiến; góp phần làm phong phú cho đề tài quê hương đất nước trong văn học.
- Vẻ đẹp riêng của mỗi đoạn thơ thể hiện đậm nét phong cách nghệ thuật độc đáo của mỗi nhà thơ.
c. Kết bài
Bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ về hai đoạn thơ.
Số bình luận về đáp án: 0