Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay lại vái lia lịa:
- Con lạy quý tòa…
- Sao, sao?
- Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…
Lúc bấy giờ tôi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ làm việc bên ngoài và phòng ngủ bên trong của Đẩu. Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá. Tôi vén lá màn bước ra.
Người đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhổm xoay mình trên chiếc ghế như bị kiến đốt, và về sau tôi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ rằng tòa án đã bố trí sẵn tôi ngồi phía sau để chuẩn bị làm nhân chứng.
- Chị cứ ngồi nguyên đấy! - Đẩu nói với vẻ đầy hào hứng của một con người bảo vệ công lí vừa có thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang phòng bên xách một chiếc ghế cho tôi. Bấy giờ dưới con mắt của người đàn bà hàng chài, vị chánh án không phải là Đẩu đã trở về ngồi sau chiếc bàn lớn mà là tôi với mấy vết thương đã lên da non nhưng vẫn để dấu vết trên mặt.
- Tùy bà! - Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái cung cách bề ngoài của một vị chánh án - chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hòa thuận…
Đang ngồi cúi gục xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng người một, với một vẻ ban đầu hơi ngơ ngác.
- Chị cám ơn các chú! - Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một cái giọng khẩn thiết - Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…
Chỉ mấy lời mào đầu ấy, người đàn bà đã mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt. Điệu bộ khác, ngôn ngữ khác.
Cũng phải nói thật, những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi. Dầu mặt hãy còn trẻ, Đẩu cũng là một chánh án huyện. Còn tôi, một người đáng lẽ mụ phải biết ơn…
Nhưng người đàn bà để lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò của chúng tôi. Mụ đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá bên kia con đường chính của phố huyện ở đấy, thiếu nữ mặc áo tím vẫn ngồi đợi mụ trên chiếc mủng.
Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt, nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể:
- Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ nhà tôi còn khá giả, nhà tôi trước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới. Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…
- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? - Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
- Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt - nhưng
cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thu">
Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay lại vái lia lịa:
- Con lạy quý tòa…
- Sao, sao?
- Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…
Lúc bấy giờ tôi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ làm việc bên ngoài và phòng ngủ bên trong của Đẩu. Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá. Tôi vén lá màn bước ra.
Người đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhổm xoay mình trên chiếc ghế như bị kiến đốt, và về sau tôi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ rằng tòa án đã bố trí sẵn tôi ngồi phía sau để chuẩn bị làm nhân chứng.
- Chị cứ ngồi nguyên đấy! - Đẩu nói với vẻ đầy hào hứng của một con người bảo vệ công lí vừa có thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang phòng bên xách một chiếc ghế cho tôi. Bấy giờ dưới con mắt của người đàn bà hàng chài, vị chánh án không phải là Đẩu đã trở về ngồi sau chiếc bàn lớn mà là tôi với mấy vết thương đã lên da non nhưng vẫn để dấu vết trên mặt.
- Tùy bà! - Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái cung cách bề ngoài của một vị chánh án - chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hòa thuận…
Đang ngồi cúi gục xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng người một, với một vẻ ban đầu hơi ngơ ngác.
- Chị cám ơn các chú! - Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một cái giọng khẩn thiết - Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…
Chỉ mấy lời mào đầu ấy, người đàn bà đã mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt. Điệu bộ khác, ngôn ngữ khác.
Cũng phải nói thật, những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi. Dầu mặt hãy còn trẻ, Đẩu cũng là một chánh án huyện. Còn tôi, một người đáng lẽ mụ phải biết ơn…
Nhưng người đàn bà để lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò của chúng tôi. Mụ đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá bên kia con đường chính của phố huyện ở đấy, thiếu nữ mặc áo tím vẫn ngồi đợi mụ trên chiếc mủng.
Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt, nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể:
- Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ nhà tôi còn khá giả, nhà tôi trước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới. Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…
- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? - Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
- Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt - nhưng
cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thu">
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người đàn bà hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu) trong đoạn trích dưới đây, và cho biết anh/chị có đồng tình với cách nhìn của nhân vật về người chồng không, vì sao?
Người đàn bà hướng về phía Đẩu, tự nhiên chắp tay lại vái lia lịa:
- Con lạy quý tòa…
- Sao, sao?
- Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…
Lúc bấy giờ tôi đang ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa ngăn chỗ làm việc bên ngoài và phòng ngủ bên trong của Đẩu. Sau câu nói của người đàn bà, tôi cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá. Tôi vén lá màn bước ra.
Người đàn bà nhận ra được tôi ngay. Mụ nhấp nhổm xoay mình trên chiếc ghế như bị kiến đốt, và về sau tôi mới sực nghĩ ra, mụ nghĩ rằng tòa án đã bố trí sẵn tôi ngồi phía sau để chuẩn bị làm nhân chứng.
- Chị cứ ngồi nguyên đấy! - Đẩu nói với vẻ đầy hào hứng của một con người bảo vệ công lí vừa có thêm người đến tiếp viện, anh chạy sang phòng bên xách một chiếc ghế cho tôi. Bấy giờ dưới con mắt của người đàn bà hàng chài, vị chánh án không phải là Đẩu đã trở về ngồi sau chiếc bàn lớn mà là tôi với mấy vết thương đã lên da non nhưng vẫn để dấu vết trên mặt.
- Tùy bà! - Đẩu thay đổi cách xưng hô, khoác lên mình cái cung cách bề ngoài của một vị chánh án - chủ trương nguyên tắc của chúng tôi là kêu gọi hòa thuận…
Đang ngồi cúi gục xuống, người đàn bà bỗng ngẩng lên nhìn thẳng vào chúng tôi, lần lượt từng người một, với một vẻ ban đầu hơi ngơ ngác.
- Chị cám ơn các chú! - Người đàn bà đột nhiên thốt lên bằng một cái giọng khẩn thiết - Đây là chị nói thành thực, chị cám ơn các chú. Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…
Chỉ mấy lời mào đầu ấy, người đàn bà đã mất hết cái vẻ ngoài khúm núm, sợ sệt. Điệu bộ khác, ngôn ngữ khác.
Cũng phải nói thật, những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi. Dầu mặt hãy còn trẻ, Đẩu cũng là một chánh án huyện. Còn tôi, một người đáng lẽ mụ phải biết ơn…
Nhưng người đàn bà để lộ ra cái vẻ sắc sảo chỉ đến thế, chỉ vừa đủ để kích thích trí tò mò của chúng tôi. Mụ đưa cặp mắt đầy vẻ mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá bên kia con đường chính của phố huyện ở đấy, thiếu nữ mặc áo tím vẫn ngồi đợi mụ trên chiếc mủng.
Trong phút chốc, ngồi trước mặt chúng tôi lại là một người đàn bà lúng túng, đầy sợ sệt, nhưng có vẻ thông cảm với chúng tôi hơn. Mụ bắt đầu kể:
- Từ nhỏ tuổi tôi đã là một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt, sau một bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ nhà tôi còn khá giả, nhà tôi trước ở trong cái phố này. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới. Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.
Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình:
- Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…
- Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? - Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.
- Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính - bỗng mụ đỏ mặt - nhưng
cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thu
- Dẫn dắt vấn đề
- Nêu vấn đề
b. Thân bài
Giới thiệu khái quát về Nguyễn Minh Châu, về “Chiếc thuyền ngoài xa” và đoạn trích
Tham khảo Câu 2 phần Làm văn - Đề số 07
Giải quyết vấn đề nghị luận
Cảm nhận về hình tượng người đàn bà hàng chài trong đoạn trích
- Sơ lược về bối cảnh xuất hiện nhân vật trong đoạn trích: Người đàn bà xuất hiện trong cuộc trò chuyện với Phùng và Đẩu ở toà án huyện, nơi Đẩu làm chánh án, cũng là nơi Phùng đang lưu lại để điều trị vết thương trong cuộc ẩu đả với gã đàn ông vũ phu.
- Hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích: Nhân vật được Nguyễn Minh Châu tập trung khắc hoạ thông qua lời nói, thông qua cuộc trò chuyện với Phùng và Đẩu. Qua đó, người đàn bà đã bộc lộ nhiều đặc điểm (phẩm chất, tính cách) của mình.
+ Lòng bao dung, nhân hậu khi nói về gã chồng:
• Dù là nạn nhân thường xuyên của nạn bạo hành từ gã chồng vũ phu, song người đàn bà vẫn chưa khi nào quên được hình ảnh của gã chồng thời trẻ (“Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi.”).
• Bà ta lí giải nguyên do khiến gã chồng trở nên tàn độc, tha hoá là vì trước những áp lực của cuộc sống khó khăn, gã đàn ông này lại không biết uống rượu để giải toả những uất ức, bức bách trong đời sống. Gã ta đánh vợ như là một cách để trút giận, để giải toả những uất ức, khổ sở, bức bối đó. (“Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu...”)
• Khi chia sẻ với Phùng và Đẩu về câu chuyện gia đình mình, người đàn bà không đổ hết trách nhiệm lên chồng. Hai lần trong đoạn trích người đàn bà đưa ra những lí do khác để “giảm nhẹ” tội cho chồng mình (“Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”, “cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”.)
• Việc người đàn bà tự nhận trách nhiệm chính, tự nhận lỗi chính thuộc về mình còn cho thấy lòng tự trọng rất đáng quý ở một người phụ nữ lao động nghèo.
• Sẵn sàng biến mình thành “tấm bia” để gã chồng lên đạn bắn mỗi khi gã uất ức, khổ sở.
+ Thương con:
• Khi chấp nhận để chồng đánh như một cách để gã giải toả những uất ức, khổ sở, người đàn bà đã xin chồng đưa lên bờ mà đánh. Chi tiết cho thấy tình yêu thương, sự lo lắng rất mực của người mẹ khốn khổ đối với các con. Bà ta không muốn các con bị tổn thương về tâm hồn khi chứng kiến cảnh bố đánh mẹ tàn độc như vậy.
• Người đàn bà nhất định không chịu bỏ chồng vì bà ta cần gã chồng vũ phu ấy chung lưng đấu cật, cùng nhau làm lụng để nuôi đàn con trên dưới chục đứa.
• Nhận thức đúng đắn về thiên chức của người mẹ: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con”. Đây là nhận thức mang tính bản năng chứ không phải do được học hành, nhưng chính bởi vậy mà nhận thức ấy lại rất sâu sắc.
• Khi được hỏi về giây phút vui nhất trong cuộc đời, người đàn bà đã trả lời ngay: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no...”. Câu nói của người mẹ thực đáng thương bởi lẽ niềm hạnh phúc cũng chính là niềm mong mỏi đau đáu suốt cuộc đời của người đàn bà này không phải là điều gì quá lớn lao mà chính là một điều hết sức nhỏ nhoi, giản dị. Song, không vì mong ước, niềm vui quá giản dị mà người đọc lại không cảm nhận được sự vĩ đại trong tình yêu thương con của người mẹ nghèo khổ.
- Sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời:
+ Để khắc hoạ sự sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời của người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã đối lập vẻ bề ngoài với những phẩm chất tốt đẹp trong chính nhân vật. Nhà văn để người đọc có ấn tượng sâu sắc về vẻ bề ngoài đáng thương, tội nghiệp của người đàn bà:
• Vẻ bề ngoài: xấu xí (“mặt rỗ”, gương mặt lúc nào cũng mệt mỏi do thiếu ngủ, quần áo toàn những miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng).
• Dáng điệu: “lúng túng, đầy sợ sệt”.
• Đáng thương, cam chịu một cách ngu ngốc: chấp nhận để chồng đánh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
+ Sự sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời của người đàn bà chỉ được bộc lộ trong cuộc trò chuyện giữa bà ta với Phùng và Đẩu. Qua những điều mà người đàn bà giãi bày, chia sẻ, Phùng, Đẩu và cả người đọc mới vỡ lẽ về những lí do khiến người đàn bà không thể bỏ chồng:
• Gia đình người đàn bà làm công việc chài lưới. Cuộc sống của họ quanh năm suốt tháng lênh đênh trên biển. Mà hiển nhiên, không phải lúc nào sóng cũng yên biển cũng lặng, cũng có lúc biển động, sóng dữ. Những lúc như thế, bất cứ con thuyền nào cũng cần có một gã đàn ông khoẻ mạnh làm trụ cột để chèo chống con thuyền khi phong ba bão táp.
• Người đàn bà này có cả chục đứa con, riêng mình bà ta không thể một mình nuôi con được. Người đàn bà này không thuộc tuýp có thể ruồng rẫy chồng con, ruồng rẫy cuộc sống nghèo khổ để đi tìm vui, tìm ấm no, hạnh phúc cho riêng mình. Do đó, bà ta luôn cần gã chồng - dù đó là gã đàn ông tàn độc - cùng làm lụng, “chung lưng đấu cật” để nuôi đàn con.
• Khi lí giải nguyên nhân dẫn đến thói bạo lực của gã chồng, người đàn bà không tìm lỗi ở gã đàn ông mà lại xuất phát từ nguyên nhân chủ quan (từ chính mình) và khách quan (từ hoàn cảnh sống) để lí giải. Theo đó, bà ta cho rằng lỗi chính là do “đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá” và khách quan là do thuyền chật, cuộc sống quá khó khăn (có những tháng biển động, cả nhà phải ăn xương rồng luộc chấm muối).
• Một trong những lí do nữa khiến người đàn bà không thể bỏ chồng là bởi với bà ta, việc gã đàn ông đánh vợ chỉ là hiện tượng, không phải là bản chất; không phải lúc nào gia đình bà ta cũng lục đục, mà “cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ.” Với chi tiết này, đồng thời với việc cảm nhận về sự sắc sảo, thấu suốt lẽ đời, người đọc cũng có thể cảm nhận thêm một nét đẹp khác trong hình tượng nhân vật này: luôn biết trân trọng những niềm vui nhỏ bé của cuộc đời, luôn biết chắt chiu những giọt hạnh phúc hiếm hoi của cuộc đời làm động lực sống cho mình.
Xét về “lượng”, trong khi Phùng và Đẩu chỉ vin vào một lí do duy nhất là sự tàn độc của gã đàn ông để thuyết phục người đàn bà bỏ chồng thì chính người đàn bà ấy lại viện dẫn được hơn một lí do/ nhiều lí do để thuyết phục ngược lại Phùng và Đẩu.
Xét từ “chất”, trong khi Phùng và Đẩu chỉ nhìn ở hiện tượng và nhìn bằng cái nhìn đầy định kiến về gã đàn ông thì người đàn bà lại nhìn bằng cái nhìn của kẻ trong cuộc, nhìn thấu vào bản chất của sự việc, của con người.
+ Không chỉ thuyết phục Phùng và Đẩu bằng những lí do từ chính góc nhìn của người trong cuộc, qua đoạn trích, người đọc còn nhận thấy có sự khác biệt trong cái nhìn và cách nhìn của người đàn bà với cái nhìn, cách nhìn của Phùng và Đẩu về công việc chài lưới, về gã đàn ông và về chính cuộc đời của người đàn bà.
• Về công việc chài lưới:
o Đẩu hỏi người đàn bà: “Vậy sao không lên bờ mà ở?” Khi hỏi người đàn bà câu này, chứng tỏ Đẩu không hiểu gì về công việc chài lưới của những người dân hàng chài.
o Người đàn bà: “Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? (...) cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!”.
Là người trong cuộc, là người sống bằng nghề chài lưới, có những trải nghiệm thực tế nên người đàn bà đã lí giải thuyết phục nguyên do vì sao họ không thể sống trên bờ mà phải chấp nhận chen chúc trên con thuyền chật chội.
• Về gã đàn ông:
o Phùng hỏi người đàn bà: “Lão ta hồi trước bảy nhăm có đi lính nguỵ không?”. Đây là câu hỏi thể hiện cái nhìn đầy định kiến của Phùng về gã đàn ông. Từng là một người lính giải phóng, hẳn Phùng sẽ luôn giữ cái nhìn “hình viên đạn” với bất kể tên lính nguỵ nào. Có lẽ, ngay khi nhìn thấy chiếc thắt lưng của lính nguỵ được gã đàn ông rút ra để đánh người đàn bà trên bờ biển, Phùng đã mặc định gã đàn ông này từng đi lính cho nguỵ. Và như vậy, gã chính là kẻ thù của một người lính như Phùng. Thêm nữa, cũng có lẽ Phùng mặc định bất kể kẻ nào là lính nguỵ thì cũng tàn độc mà thôi.
o Người đàn bà khẳng định: “Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Và chính người đàn bà lí giải tính cách bạo lực của gã đàn ông bằng sự tha hoá do hoàn cảnh sống đưa lại.
• Về chính cuộc đời của người đàn bà:
o Phùng và Đẩu nhìn người đàn bà là nạn nhân đáng thương, thậm chí ngu ngốc của nạn bạo hành. Hai người này muốn giải thoát cho bà ta.
o Người đàn bà từ chối lòng tốt của Phùng và Đẩu. Là người trong cuộc, hơn ai hết bà ta hiểu và chấp nhận cuộc đời của chính mình, thậm chí rất nâng niu những giây phút hạnh phúc hiếm hoi, coi đó là động lực sống - đó là những giây phút gia đình ba ta hoà thuận, vui vẻ, hay đó là giây phút bà ta nhìn thấy đàn con được ăn no.
Sở dĩ có độ chênh, có sự khác biệt trong cái nhìn và cách nhìn của người đàn bà với Phùng và Đẩu là bởi: khoảng cách và sự gián cách. Phùng và Đẩu đứng từ xa (chứ không trong tâm thế của người trong cuộc) quan sát hiện tượng người đàn bà bị bạo hành; cái nhìn của hai người này vẫn còn chứa những thiên kiến, định kiến, những hạn chế.
Bày tỏ quan điểm về cách nhìn nhân vật người chồng của người đàn bà hàng chài
Thí sinh có thể bày tỏ quan điểm đồng tình/ không đồng tình/ đồng tình một phần với cách nhìn nhân vật người chồng của người đàn bà hàng chài. Song cần thấy trong truyện ngắn nói chung và đoạn trích nói riêng, Nguyễn Minh Châu đã các nhân vật Phùng, Đẩu và người đàn bà bộc lộ cái nhìn, cách nhìn về nhân vật người chồng. Một cách khách quan, có thể thấy cái nhìn của người đàn bà hàng chài là cái nhìn của người trong cuộc, nhìn từ nhiều phía, nhiều chiều, nhìn bằng sự thấu hiểu, đồng cảm, bao dung, vị tha. Bởi thế nên gã chồng hiện lên không rặt là phường ác độc mà là cũng là một con người hết sức đáng thương.
Nhận xét, đánh giá; mở rộng, nâng cao
- Hình tượng người đàn bà hàng chài là hiện thân của người phụ nữ lao động nghèo trong xã hội Việt Nam hiện đại. Với hình tượng nhân vật này, Nguyễn Minh Châu cũng đã thể hiện sự thấu hiểu, cảm thông, yêu thương sâu sắc.
- Hình tượng hiện lên chân thực, sinh động thông qua nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình của nhà văn.
- Nguyễn Minh Châu đã soi chiếu các nhân vật từ nhiều góc nhìn và đó cũng chính là thông điệp nghệ thuật mà ông muốn gửi đến những người cầm bút: người nghệ sĩ phải đến gần với hiện thực đời sống và phải khám phá đời sống một cách đa diện, nhiều chiều.
c. Kết bài
Bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ về hình tượng các nhân vật trong đoạn trích.