Có ý kiến cho rằng: Trích đoạn “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm thể hiện cái nhìn mới mẻ, sâu sắc về đất nước. Ý kiến khác lại cho rằng: Trong “Đất Nước” (Nguyễn Khoa Điềm), chất chính luận hòa quyện cùng chất trữ tình và khả năng vận dụng một cách sáng tạo nguồn văn hóa, văn học dân gian.
Bằng cảm nhận về trích đoạn Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm), anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về các ý kiến trên.
Đáp án đúng:
a. Mở bài
Tham khảo Câu 2 phần Làm văn - Đề số 41
b. Thân bài
Giới thiệu khái quát về Nguyễn Khoa Điềm, về trường ca “Mặt đường khát vọng”, trích đoạn “Đất Nước”
Tham khảo Câu 2 phần Làm văn - Đề số 11
Giải quyết vấn đề nghị luận
Cảm nhận về trích đoạn “Đất Nước”
Phần một: Những suy tư về Đất Nước
- Chín dòng đầu: Nguồn gốc của Đất Nước (Đất Nước có từ bao giờ?)
+ Vấn đề Nguyễn Khoa Điềm đang suy tư: Nguồn gốc của Đất Nước. Nhà thơ đã ngầm đặt ra câu hỏi: Đất Nước có từ bao giờ? trong chín dòng thơ này.
+ Để trả lời cho câu hỏi về nguồn gốc của Đất Nước, tác giả đã:
• Khẳng định mặc định: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
o “Ta”: đại từ phiếm chỉ, không chỉ đích xác đối tượng nào. Nhưng cũng chính vì nó là đại từ phiếm chỉ nên “ta” lại có thể là bất kì ai trong số tất cả con dân Việt Nam.
o Câu thơ này ngầm ý khẳng định sự xuất hiện và tồn tại từ rất lâu đời của Đất Nước.
• Nhà thơ đã lí giải về nguồn gốc của Đất Nước bằng ba thành tố chính:
o Vốn văn hoá, văn học dân gian: Dấu ấn của văn hoá, văn học dân gian được xác lập bằng sự hiện diện của những câu chuyện dân gian (cổ tích “Trầu cau”, truyền thuyết “Thánh Gióng”); những câu ca dao (“Tay nâng chén muối đĩa gừng/ Gừng cay muốn mặn, xin đừng quên nhau”, “Muối ba năm muối đang còn mặn/ Gừng chín tháng gừng hãy còn cay/ Đôi ta nghĩa nặng tình dày/ Dẫu có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa...); những câu thành ngữ (“gừng cay muối mặn”, “một nắng hai sương”, “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, “Miếng trầu nên dâu nhà người”...); những câu chuyện cổ, những câu ca dao, những câu thành ngữ, tục ngữ... vốn là thành quả của sáng tạo dân gian. Những sản phẩm văn học dân gian này xuất hiện từ rất lâu đời (từ khi chưa có chữ viết). Vậy nên, khi gợi lại dấu ấn của văn học dân gian trong lời thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã ngầm chứng minh về sự xuất hiện và tồn tại lâu đời của Đất Nước.
o Phong tục, tập quán (chỉ có ở những dân tộc tồn tại lâu đời): tục ăn trầu cho môi đỏ răng đen của người Việt; búi tóc sau đầu của phụ nữ Việt xưa (khác với phụ nữ Trung Hoa: búi tóc trên đỉnh đầu); đặt tên xấu cho con để ma quỷ đỡ bắt; tập quán trồng lúa nước của người Việt (“xay, giã, giần, sàng”).
o Truyền thống đánh giặc giữ nước (“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”) - truyền thống ngàn đời của dân tộc.
Đây là ba thành tố xác đáng nhất, kiên cố nhất khẳng định sự tồn tại lâu đời của Đất Nước, của dân tộc. NKĐ không cần sử dụng các di chỉ khảo cổ (như các nhà khảo cổ học) hay các niên đại lịch sử (như các nhà lịch sử) mà vẫn chứng minh được nguồn gốc lâu đời của Đất Nước.
+ Giọng điệu: như lời thủ thỉ, trò chuyện, tâm tình ngọt ngào lời thơ dễ đi vào lòng người, lay động xúc cảm trong lòng người đọc.
- Liên hệ:
Cùng viết về đề tài đất nước, còn có Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu:
- “Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”
(“Bài thơ Hắc Hải” - Nguyễn Đình Thi)
- “Tổ quốc tôi như một con tàu
Mũi thuyền ta đó, mũi Cà Mau
Những dòng sông rộng hơn ngàn thước
Trùng điệp một màu xanh lá đước”
(“Mũi Cà Mau” - Xuân Diệu)
Nhưng, trong cách cảm nhận và thể hiện về đất nước của Nguyễn Đình Thi và Xuân Diệu, thì đất nước hiện lên như một thực thể vô cùng lớn lao, kì vĩ, mĩ lệ, tráng lệ. Trong khi đó, Nguyễn Khoa Điềm lại thể hiện một cách tiếp cận rất riêng về đất nước. Đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm không phải là cái đó quá lớn lao mà chính là những thứ nhỏ bé, gần gũi, thân thuộc, chân chất, mộc mạc với cái nhìn, nếp nghĩ của mỗi người (miếng trầu, khóm tre, nhánh gừng, hạt muối, cái kèo, cái cột, hạt gạo, nắng, sương).
Tiểu kết: Chín dòng thơ là sự lí giải độc đáo về nguồn gốc của Đất Nước.
- Hai mươi dòng tiếp: Định nghĩa về Đất Nước (Đất Nước là gì?)
+ Định nghĩa bằng lối chiết tự theo mô-típ:
“Đất là...
Nước là...
Đất Nước là...”
Theo đó, hai mươi dòng thơ này được ngắt thành 03 nhịp, mỗi nhịp đều thực hiện đúng theo mô-tip bên trên.
• Nhịp thứ nhất (bốn dòng đầu):
• Điệp cấu trúc: “... là nơi...” thể hiện nhận thức về đất nước qua không gian. Đất Nước đang được định nghĩa theo chiều không gian.
• Những không gian được gợi trong lời thơ: “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, “nơi ta hò hẹn”, “nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” - gần gũi, thân thuộc, gắn liền với đời sống sinh hoạt thường ngày của mỗi người; không gian của tình yêu đôi lứa.
• Giọng điệu: lời thơ như lời thủ thỉ, tâm tình của lứa đôi trai gái yêu nhau.
+ Nhịp thứ hai (năm dòng tiếp):
• Vẫn tiếp tục duy trì lối chiết tự. Tuy nhiên, ngoài chiều không gian thì Đất Nước còn được khám phá thêm từ chiều thời gian (“Thời gian đằng đẵng”).
• Với chiều không gian, biên độ không gian được mở rộng ra theo nhiều hướng: có chiều cao của núi (được đo bằng đường bay của cánh chim), chiều sâu của biển (được đo bằng đường bơi của cá), chiều rộng “mênh mông” của không gian trùng điệp.
Như vậy, so với nhịp thứ nhất, ở đây biên độ không gian đã lớn hơn, rộng hơn rất nhiều. Theo đó, trước mắt người đọc là hình ảnh về một đất nước cao rộng, mênh mông, khoáng đạt.
Nhịp thơ thứ hai vừa thừa tiếp, vừa phát triển so với bốn dòng thơ trước.
+ Nhịp 3 (còn lại):
• Vẫn chiết tự và vẫn liên kết hai trục không gian, thời gian để định nghĩa về đất nước. Song, so với hai nhịp trên, nhịp này chủ yếu định nghĩa về đất nước theo mạch thời gian.
• Mạch thời gian: bắt đầu từ quá khứ xa xưa, từ thuở khai thiên lập địa, thuở hồng hoang, thuở mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân sinh ra đồng bào ta - kết nối đến hiện tại (Những ai bây giờ) - nối dài đến tận tương lai (Dặn dò con cháu chuyện mai sau).
Theo đó, thời gian là một dải xuyên suốt từ quá khứ - hiện tại - tương lai đất nước trường tồn vĩnh cửu.
Tiểu kết:
• Qua ba nhịp thơ cùng với lối chiết tự, Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến người đọc một định nghĩa độc đáo về đất nước: Đất Nước là sự kết hợp hài hoà giữa cá nhân - cộng đồng, gần gũi - xa xôi, cụ thể - trừu tượng, hiện thực - huyền thoại, không gian - thời gian, nhỏ bé - lớn lao...
• Nguyễn Khoa Điềm chia tách Đất, Nước rồi lại hợp thành Đất Nước, điều này mang đến liên tưởng về sự kết nối của cá nhân để làm nên một cộng đồng vững mạnh.
• Giọng điệu trữ tình (lời thủ thỉ, trò chuyện, tâm tình ngọt ngào) - chính luận (định nghĩa về Đất Nước); gợi dẫn, sử dụng sáng tạo vốn văn học dân gian (mượn lại ý tứ, hình ảnh của những câu ca dao, những câu chuyện cổ) khiến lời thơ trở nên gần gũi, dễ đi vào lòng người.
- Mười ba dòng tiếp: Nhận thức về vai trò, sứ mệnh đối với Đất Nước
+ Chín dòng đầu (Vì sao phải có trách nhiệm đối với ĐN?):
• Trong mỗi người, mỗi cá nhân “đều có một phần Đất Nước”: sự gắn bó, gắn kết máu thịt giữa mỗi cá nhân đối với Đất Nước.
• Khi cùng sống trong một đất nước, mỗi chúng ta lại luôn gắn bó với nhau để tạo nên, hình thành nên một cộng đồng lớn mạnh: Sự gắn bó: “Anh và em - hai đứa cầm tay” (tạo nên lứa đôi) - “chúng ta cầm tay mọi người” (tạo nên cộng đồng) - “mai này con ta lớn lên” (tương lai). Thành quả của sự gắn kết: Đất Nước “hài hoà nồng thắm - Đất Nước vẹn tròn, to lớn” - Đất Nước “những tháng ngày mơ mộng”. Chính sự gắn kết của mỗi cá thể, cá nhân sẽ tạo nên một cộng đồng, một Đất Nước trọn vẹn yêu thương, đoàn kết gắn bó, lớn mạnh, trường tồn vĩnh cửu.
+ Bốn dòng sau (Trách nhiệm đó như thế nào?):
• Trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Đất Nước được thể hiện bằng các động từ: “gắn bó”, “san sẻ”, “hoá thân”. Các từ ngữ này cùng chỉ sự gắn kết, kết nối, chia sẻ, hi sinh - những điều mà mỗi người có thể thực hiện để bảo vệ, xây dựng đất nước.
• Để thể hiện trách nhiệm của cá nhân đối với Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm vẫn lựa chọn giọng điệu thủ thỉ, tâm tình của lứa đôi trai gái. Điều này khiến lời thơ dù đề cập đến trách nhiệm nhưng không hô hào, khẩu hiệu, không lên gân mà rất nhẹ nhàng, thấm thía, dễ lay động lòng người.
Hình ảnh so sánh “Đất Nước là máu xương của mình” gợi đến lối tư duy quen thuộc của người xưa (“Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, “Anh em như thể chân tay”...), thể hiện sự gắn bó máu thịt thiêng liêng giữa cá nhân với đất nước. Điệp ngữ “Phải biết...” đưa lời thơ trở thành một mệnh lệnh khởi phát từ trái tim.
- Tiểu kết phần một:
+ Nghệ thuật: Chất trữ tình - chính luận; giọng điệu thủ thỉ, tâm tình; cách sử dụng sáng tạo vốn văn học dân gian...
+ Nội dung: Lí giải về nguồn gốc của Đất Nước và định nghĩa về Đất Nước một cách độc đáo.
Phần hai: Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”
- Mười hai dòng đầu: Khám phá về vai trò, sự đóng góp, hi sinh của nhân dân từ góc nhìn địa lí
+ Dấu ấn địa lí:
• Sự xuất hiện của một loạt các danh thắng trải dài từ bắc chí nam: núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, ao đầm (Thánh Gióng), đất Tổ Hùng Vương, núi Bút, non Nghiên, Hạ Long, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm...
• Đất nước hiện lên: tươi đẹp, giàu có, trù phú; giàu truyền thống (coi trọng nghĩa tình, yêu nước, hiếu học...)
+ Vai trò của nhân dân đối với Đất Nước từ góc nhìn địa lí: Làm nên đất nước tươi đẹp, giàu có và có bề dày truyền thống chính là nhân dân:
• Liệt kê công sức của nhân dân: những người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, Thánh Gióng, chín mươi chín con voi, những con rồng, người học trò nghèo, con cóc, con gà, những người dân nào... - đông đảo nhân dân vô danh, bình dị, “không ai nhớ mặt đặt tên”. Họ lặng thầm dựng xây, góp sức để làm nên vóc dáng, hình hài, hồn cốt của quê hương đất nước.
• Điệp cú pháp: Danh từ chung (chỉ nhân dân) + động từ “góp”... khẳng định, nhấn mạnh vai trò, sự đóng góp, hi sinh của nhân dân để làm nên đất nước.
• Các từ ngữ chỉ không gian (“khắp ruộng đồng gò bãi”), chỉ thời gian (“bốn nghìn năm”) khẳng định sự hoá thân bền bỉ và kì diệu của hết thảy nhân dân để làm nên vóc dáng, hình hài (“dáng hình”) và linh hồn (“ao ước”, “lối sống”) dân tộc.
Tiểu kết: Đoạn thơ là sự hoá thân kì diệu của nhân dân để làm nên đất nước. Và ngược lại, vóc dáng hình hài của đất nước chính là sự phản chiếu tâm hồn, linh hồn của nhân dân.
- Hai mươi bảy dòng tiếp: Khám phá về vai trò, sự đóng góp, hi sinh của nhân dân từ góc nhìn lịch sử
+ Dấu ấn lịch sử: được thể hiện qua các từ ngữ “rất xa”, “bốn nghìn năm”, “năm tháng nào”, “bốn nghìn lớp người”. Các từ ngữ này đã mặc định chỉ mọi thời điểm, thời đại khi đất nước có giặc ngoại xâm.
+ Vai trò của nhân dân từ góc nhìn lịch sử:
• Nhân dân: “người người lớp lớp” - số đông, đông đảo nhân dân; là những người con gái con trai, đàn bà... Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng những danh từ chung để chỉ nhân dân.
• Vai trò:
• Nhân dân là lực lượng nòng cốt đánh giặc ngoại xâm:
- “Khi có giặc người con trai ra trận,
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”
- “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
• Kiến tạo/ tạo tác/ dựng xây, truyền giữ những giá trị vật chất (hạt lúa, lửa, đập, bờ, cây, trái) và văn hoá - tinh thần (giọng điệu, tên xã, tên làng). Để thể hiện vai trò này, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng: Phép điệp (cấu trúc cú pháp): “Họ” + động từ + bổ ngữ; nhiều động từ: “giữ”, “truyền”, “chuyền”, “gánh”, “đắp”, “be”, “chống”, “vùng”; liệt kê: những giá trị vật chất và văn hoá tinh thần được nhân dân tạo dựng nên.
+ Nét độc đáo của NKĐ khi khám phá về vai trò, sự hi sinh, đóng góp của nhân dân:
“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Nhân dân đã luôn chiến đấu, hi sinh, cống hiến để bảo vệ, dựng xây đất nước. Song họ làm tất cả những điều đó một cách tự nguyện và thầm lặng. Nên khi ngợi ca công lao của nhân dân, Nguyễn Khoa Điềm đã không hề gọi tên bất kì một vĩ nhân nào, mà ông gọi chung nhân dân.
- Phần còn lại: Khám phá về vai trò, sự đóng góp, hi sinh của nhân dân từ góc nhìn văn hoá (văn học dân gian)
+ Dấu ấn văn hoá: được thể hiện qua một loạt chi tiết:
• “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
• Mượn ý tứ, hình ảnh từ những câu ca dao:
- “Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”
- “Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”
- “Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”
• Gợi lại cốt truyện truyền thuyết “Thánh Gióng”
Nguyễn Khoa Điềm khẳng định đất nước này là đất nước của nhân dân. Bởi lẽ nhân dân là những người đầu tiên xuất hiện và từ thuở khai thiên lập địa, chính họ đã sáng tạo nên những câu chuyện cổ dân gian, những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ dân gian... Và đó chính là văn học - văn hoá dân gian.
• Vai trò của nhân dân từ góc nhìn văn hoá:
• Chính nhân dân là những người sáng tạo, hình thành nên nền văn hoá từ thuở sơ khai.
• Nhà thơ đã chọn ba câu ca dao đặc sắc nhất trong kho tàng văn học dân gian để nhấn mạnh ba truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam:
o “Yêu em từ thuở trong nôi/ Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”: say đắm trong tình yêu.
o “Cầm vàng mà lội qua sông/ Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”: coi trọng tình nghĩa.
o “Thù này ắt hẳn còn lâu/ Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”: đánh giặc giữ nước.
Tiểu kết:
• Nguyễn Khoa Điềm không phải là người đầu tiên hay duy nhất viết về nhân dân, cũng không phải là người đầu tiên hay duy nhất thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, song tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” đã được ông soi chiếu kĩ càng qua ba góc nhìn (địa lí, lịch sử, văn hoá) và thể hiện đậm nét, độc đáo qua lời thơ.
• Để thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, nhà thơ đã sử dụng thể thơ tự do (giúp tác giả bộc lộ phóng khoáng những suy tư về đất nước, về nhân dân); giọng điệu đậm chất suy tưởng, sâu lắng; sử dụng sáng tạo chất liệu văn học dân gian...
Bình luận các ý kiến
- Mỗi ý kiến đều đúng, đều thể hiện cảm nhận sâu sắc về tác phẩm. Trong đó, ý kiến thứ nhất đề cập đến khía cạnh nội dung, ý kiến thứ hai đề cập đến khía cạnh nghệ thuật.
- Hai ý kiến không loại trừ nhau mà cần được kết hợp để bổ sung cho nhau, mang lại cái nhìn trọn vẹn về trích đoạn “Đất Nước”.
- Từ hai ý kiến, có thể thấy được cái riêng, cái độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm so với các nhà thơ khác cùng chung đề tài, chủ đề sáng tác.
Nhận xét, đánh giá; mở rộng, nâng cao
- “Đất Nước” là một trong những trích đoạn đặc sắc của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đoạn trích là kết tinh những tư tưởng, cảm xúc, tài năng nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điềm.
- Với cái nhìn mới mẻ, sâu sắc về đất nước cùng chất chính luận quyện hoà với chất trữ tình và khả năng vận dụng sáng tạo nguồn văn hoá, văn học dân gian, đoạn trích “Đất Nước” góp phần làm nên thành công của trường ca “Mặt đường khát vọng”, góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm
c. Kết bài
Bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ về bài thơ.