“Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.
Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.”
(Trích “Vợ chồng A Phủ”, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB GD, 2017, tr. 6)
Phân tích giá trị hiện thực được nhà văn Tô Hoài thể hiện trong đoạn trích trên.
"> “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.
Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.”
(Trích “Vợ chồng A Phủ”, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB GD, 2017, tr. 6)
Phân tích giá trị hiện thực được nhà văn Tô Hoài thể hiện trong đoạn trích trên.
"> “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu ?

“Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.
Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi.”

(Trích “Vợ chồng A Phủ”, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB GD, 2017, tr. 6)
Phân tích giá trị hiện thực được nhà văn Tô Hoài thể hiện trong đoạn trích trên.

Đáp án đúng:
(0.25)a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận
Mở bài giới thiệu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề; Kết bài khái quát được vấn đề

(0.25)b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận:
Giá trị hiện thực được nhà văn Tô Hoài thể hiện trong đoạn trích

(4.0)c. Triển khai vấn đề nghị luận
Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:
1. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả Tô Hoài.
- Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và đoạn trích, nêu vấn đề cần nghị luận.
2. Thân bài
a. Giải thích khái niệm giá trị hiện thực
Giá trị hiện thực là toàn bộ bức tranh đời sống hiện thực được nhà văn phản ánh trong tác phẩm theo ý đồ nghệ thuật của mình.
b. Giá trị hiện thực trong đoạn trích
* Vị trí đoạn trích: Đây là đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm, kể về cuộc sống tủi nhục của Mị khi phải làm con dau gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra.
* Phân tích giá trị hiện thực trong đoạn trích:
- Đoạn trích đã phản ánh được một bức tranh hiện thực vô cùng thê thảm về cuộc sống của người dân miền núi xưa thông qua số phận của Mị:
+ Hoàn cảnh của nhân vật Mị trước khi về làm con dâu gạt nợ trong nhà Pá Tra:
Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo với món nợ truyền đời không có hi vọng trả được, ở Mị kết tinh tất cả những phẩm chất tốt đẹp đáng quý của người nông dân miền núi: Xinh đẹp, cần cù, siêng năng, yêu tự do, có tinh thần phản kháng… Những phẩm chất này mở ra cơ hội cho Mị có thể hưởng một cuộc sống hạnh phúc nhưng hạnh phúc chưa kịp mở thì cánh cửa đã đóng lại, đẩy Mị vào cuộc sống tăm tối, đau khổ, tủi nhục khi về làm dâu gạt nợ tại nhà thống lí Pá Tra.
+ Cuộc sống của Mị trong nhà thống lí Pá Tra:
Danh nghĩa là con dâu nhưng thực chất Mị chỉ là một nô lệ, bởi vậy, trong nhà Pá Tra, Mị bị hành hạ tàn cả về thể xác lẫn tinh thần:
++ Đoạn trích mở ra bằng các chi tiết cho thấy sự chai sạn, tê liệt ý thức của Mị: Không nghĩ đến chuyện ăn lá ngón nữa, ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi, Mị tưởng mình cũng là con trâu con ngựa…
++ Nguyên nhân dẫn đến sự tê liệt ý thức ở Mị: Mị bị bóc lột sức lao động một cách vô cùng tàn nhẫn.
Đoạn trích tái hiện những công việc Mị phải làm: hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, đi nương bẻ bắp, cõng nước, hái củi, bung ngô, tước sợi đay… Sử dụng phép liệt kê, các câu văn khẳng định chính những công việc đơn điệu, nặng nề này đã vắt kiệt sức lực trẻ trung của Mị.
+ Hậu quả của cuộc sống tủi nhục: Mị rơi vào một tình trạng vô cùng thê thảm, tuyệt vọng – sống mà như đã chết.
++ Mất hết ý thức về không gian, thời gian:
“Bao giờ Mị cũng chỉ nhớ những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt. Mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại…”
“Căn buồng Mị nằm kín mít, chỉ có một cái lỗ vuông bằng bàn taym ngồi ở đó nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không rõ là sương hay nắng…”
++ Tê liệt tinh thàn phản kháng, mất luôn ý thức về sự tồn tại của bản thân mình:
“Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa”
“Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa…”

- Tố cáo tội ác của bọn thực dân phong kiến miền núi Tây Bắc. Cha con Pá Tra với chế độ cho vay nặng lãi, những hủ tục lạc hậu… là nguyên nhân đẩy những người như Mị rơi vào tình cảnh thê thảm này.
b. Nghệ thuật:
- Sự kết hợp giữa giọng trần thuật của nhà văn với dòng tâm tư của nhân vật.
- Nhiều biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ…;ngôn ngữ kể giàu chất thơ, xúc động.
3. Kết bài
- Nhà văn Tô Hoài đã lột tả được cuộc sống cơ cực, khổ nhục của nhân vật Mị qua đoạn trích.
- Lên án, tố cáo bạo chúa miền núi…

(0.25)d. Chính tả và ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả và ngữ pháp tiếng Việt.
(0.25)e. Sáng tạo
Số bình luận về đáp án: 0