The word “it” in paragraph 2 refers to
Most sources of illumination generate light over an appreciable period, and indeed if an object is lit for a very brief time(less that 1/25 second), the human eye will not react in time to see the object. A photographic emulsion - that is, a light-sensitive coating on photographic film, paper, or glass - will, however, record much shorter bursts of light. A photographic flash can therefore be used to capture high-speed movement on film as well as to correct deficiencies of the normal surrounding lighting. Photoflash is now generated electronically, but the earliest form, first used in 1864, was a paper bag containing magnesium wire and some oxygen-rich substance, such as potassium chlorate. When the bag was ignited, the metal burned with an intense flash. A contemporary observer reported that “this quite unsafe device seems to have done nothing worse that engulf the room in dense smoke and lead to pictures of dubious quality and odd poses.”
The evolution of the photoflash was slow, flashbulbs, containing fine wire made of a metal, such as magnesium or aluminum, capable of being ignited in an atmosphere of pure oxygen at low pressure, were introduced only in the 1920’s. In the earliest type, the metal was separated from the oxygen by a thin glass bulb. The flash was fired by piercing the bulb and allowing the oxygen to come into contact with the metal, which ignited spontaneously. Later bulbs were fired by an electric battery, which heated the wire by passing a small current through it. Other combinations, such as the pairing of oxygen difluoride with zirconium, have also been used. In each case enough energy is given out to heat the oxidizable metal momentarily to a white hot emission of visible light. The smoke particles are so small that they cool rapidly; but since they are white, they contribute to the brilliance by reflecting the light from their still glowing neighbors. A slightly bigger form of the metal will burn for a longer time.
(Adapted from https://studylib.net)

The word “it” in paragraph 2 refers to
A. oxygen
B. battery
C. wire
D. current
Hầu hết các nguồn chiếu sáng đều tạo ra ánh sáng ở một giai đoạn lâu đáng kể, và thực tế nếu một vật thể được chiếu sáng trong một thời gian ngắn (ít hơn 1/25 giây), mắt của con người sẽ không phản ứng kịp thời để nhìn thấy đồ vật đó. Nhũ tương trong nhiếp ảnh- là một lớp phủ mỏng nhẹ trên film chụp, giấy hoặc kính, tuy nhiên lại có thể ghi lại những chớp sáng ngắn hơn rất nhiều. Một cái đèn nháy do đó có thể được sử dụng trong nhiếp ảnh để bắt được những chuyển động tốc độ cao trên film chụp cũng như bù lại sự thiếu hụt ánh sáng của các loại đèn bình thường ở xung quanh. Đèn nháy chụp ảnh bây giờ được tạo ra bằng điện tử, nhưng ở những dạng đầu tiên, được sử dụng lần đầu vào năm 1864, nó là một cái bao giấy gồm các sợi magie và một vài chất giàu ô xi, như kali clo-rát. Khi cái bao được đốt lên, kim loại bùng cháy với một chớp sáng cường độ mạnh. Một người quan sát ở thời điểm đó tường thuật lại rằng “cái công cụ khá không an toàn này dường như không làm điều gì tệ hơn ngoài việc nhấn căn phòng chìm trong khói đặc và khiến cho chất lượng bức ảnh trở nên lờ mờ cùng những tư thế tạo dáng kỳ quặc.”
Bước tiến triển của ánh sáng chớp trong nhiếp ảnh là loại bóng đèn nháy chậm, chứa các sợi nhỏ làm từ kim loại, như magie hoặc nhôm, có khả năng được đốt cháy trong điều kiện không khí hoàn toàn là ô xi dưới áp lực thấp, được giới thiệu chỉ mới từ những năm 1920. Ở những dạng ban đầu, kim loại được tách ra khỏi ô xi bởi một bầu kim loại mỏng. Ánh sáng nháy được đốt lên bằng cách chọc thủng bầu đó và cho phép ô xi đi vào tiếp xúc với kim loại, thứ mà sẽ được đốt cháy tự động. Về sau đó thì bóng đèn được đốt cháy bằng bộ pin điện, nó làm nóng các sợi bằng cách truyền dẫn một dòng chảy nhỏ qua chúng. Những sự kết hợp khác, như bộ đôi difluoride ô-xi với zi-ri-co-ni, cũng được sử dụng. Ở mỗi loại, một lượng đủ năng lượng được dẫn ra để đốt nóng kim loại có thể ô-xi hóa trong giây lát để có được ánh sáng nóng trắng phát ra từ ánh sáng hữu hình. Các phân tử khói rất nhỏ mà chúng nguội đi rất nhanh ; nhưng vì chúng có màu trắng, chúng càng góp phần thêm cho ánh sáng chói rực bằng cách phản chiếu lại ánh sáng từ ánh sáng vẫn rực rỡ bên cạnh. Một thể kim loại lớn hơn một chút sẽ cháy trong khoảng thời gian lâu hơn.

Đáp án C

Từ “it” trong đoạn 2 đề cập đến
A. khí Oxy B. Pin
C. dây dẫn D. dòng điện
Căn cứ vào thông tin đoạn 2:
Tạm dịch: “The flash was fired by piercing the bulb and allowing the oxygen to come into contact with the metal, which ignited spontaneously. Later bulbs were fired by an electric battery, which heated the wire by passing a small current through it.” (Đèn flash được đốt sáng bằng cách xuyên thủng bóng đèn và cho phép oxy tiếp xúc với kim loại, khiến nó tự bốc cháy. Sau đó, những bóng đèn thắp sắng bởi một pin điện, pin này làm nóng dây dẫn bằng cách truyền một dòng điện nhỏ qua – tức là dây dẫn)
Các đáp án còn lại có xuất hiện trong bài nhưng không chính xác nên ta
=> Do đó, đáp án là C.